Có lẽ ít người biết, giới lý số nói chung xem phóng sanh là một giải pháp để trừ tà, giải hạn xui, nhất là về sức khỏe.
Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2014
Thứ Tư, 19 tháng 3, 2014
Dự đoán về tai nạn máy bay số hiệu MH370 (Phần 3)
Quả như đã dự đoán từ trước, việc tìm kiếm chiếc máy bay ngày càng khó khăn. Ngày qua ngày sự việc càng phức tạp, chuyện lớn mà cứ như giỡn chơi, chiếc máy bay to đùng chở cả trăm người bay đi đâu không biết.
Nay nhân dịp đọc báo thấy thế ta bèn lập quẻ nữa coi thế nào. Có tìm lại được chiếc máy bay số hiệu MH370 không ?
Thứ Ba, 18 tháng 3, 2014
Bát Thuần Ly
30. QUẺ THUẦN LY
Trên dưới đều là Ly (lửa)
Khảm là hãm, hãm thì phải có chỗ nương tựa, cho nên sau quẻ
Khảm tới quẻ Ly. Ly [離 ] là lệ [ 麗] ; thời xưa hai chữ đó đọc như nhau, dùng thay nhau được,
như nước Cao Ly (Triều Tiên) viết là [高麗 ].
Mà lệ có nghĩa là phụ thuộc vào (như từ ngữ lệ thuộc), dựa vào. Theo hình quẻ,
một nét âm ở giữa dựa vào hai nét dương ở trên, dưới.
Ly còn nghĩa thứ nhì là sáng: nét ở giữa dứt, tức là ở giữa
rỗng, rỗng thì sáng. Lửa sáng, mặt trời sáng, cho nên Ly có có tượng là lửa, là
mặt trời.
Sau cùng Ly còn có nghĩa là rời ra, như chia Ly.
Kinh Dịch mở đầu bằng hai quẻ Càn, Khôn (trời đất); tới giữa
Kinh. (cuối phần thượng của Kinh) là hai quẻ Khảm, Ly, vì hai lẽ.
Ba hào thuần dương là Càn, lấy một hào của Khôn thay vào hào
giữa của Càn, thành Ly; ba hào thuần âm là Khôn, lấy một hào của Càn thay vào
hào giữa của Khôn, thành Khảm; vậy Ly, Khảm là “thiên địa chi trung”, ở giữa
trời, giữa đất; công dụng tạo hóa của trời đất nhờ lửa và nước (Ly và Khảm) cả.
Khảm ở chính bắc, Ly ở chính nam; Khảm ở giữa đêm (giờ tí), Ly, ở giữa trưa
(giờ ngọ).
Khảm, ở giữa là nét dương, liền, thực, cho nên đức của nó là
trung thực. Ly ở giữa là nét đứt, hư, rỗng, cho nên đức của nó là sáng, là văn
minh.
* Thoán từ
離: 利貞, 亨.畜牝牛, 吉.
Ly: lợi trinh, hanh. Súc tẫn ngưu, cát.
Dịch: Dựa, lệ thuộc: chính đáng thì lợi, hanh thông. Nuôi bò
cái thì tốt.
Giảng: Dựa vào chỗ chính đáng, chẳng hạn vào người quân tử
thì hanh thông. Dựa vào người thì phải sáng suốt, và thuận theo người, vậy phải
nuôi đức thuận, đức của con bò cái (loài này dễ bảo nhất) thì mới tốt.
Ly còn nghĩa là sáng. Quẻ thuần Ly, trên dưới đều là Ly,
sáng quá, sáng suốt quá, tỏ mình hơn người thì ít người ưa, cho nên phải giấu
bớt cái sáng đi mà trau giồi đức thuận.
Thoán truyện bảo phải có đức trung chính nữa như hào 2 và
hào 5 (hào này chỉ trung thôi, nhưng đã đắc trung thì cũng ít nhiều đắc chính)
như vậy mới cải hóa được thiên hạ, thành văn minh.
* Hào từ:
1.
初九: 履錯然, 敬之, 无咎.
Sơ cửu: Lý thác nhiên, kính chi, vô cửu.
Dịch: Hào 1, dương : Dẫm bậy bạ; phải thận trọng thì không
có lỗi.
Giảng: hào dương này có nghĩa nóng nảy, cầu tiến qua, mà còn
non nớt, chưa có kinh nghiệm, như đứa trẻ vội vàng dẫm bậy bạ (Phan Bội Châu
hiểu là sỏ giày nhố nhăng), tất có lầm lỗi, nên khuyên phải thận trọng (kính
chi).
2.
六二: 黃離, 元吉.
Lục nhị: Hoàng ly, nguyên cát.
Dịch: Hào 2, âm : Sắc vàng phụ vào ở giữa, rất tốt.
Giảng: hào này ở quẻ Ly có đức văn minh, lại đắc trung, đắc
chính, trên ứng với hào 5 cũng văn minh, đắc trung, nên rất tốt. Vì ở giữa, văn
minh, nên ví với sắc vàng, đẹp, sắc của trưng ương như đã giảng ở hào 5 quẻ
Khôn và hào 5 quẻ Phệ hạp.
3.
九三: 日昃之離, 不鼓 缶而歌, 則大耋之嗟, 凶.
Cửu tam: Nhật trắc chi Ly, bất cổ phẩu nhi ca, tắc đại diệt
chi ta, hung.
Dịch: Hào 3, dương : mặt trời xế chiều lặn, (ý nói người
già, tính tình thất thường, không đáng vui mà vui. Không đáng buồn mà buồn).
Khi thì gõ cái phẫu (vò bằng đất, đựng rượu mà cũng dùng làm nhạc khí) mà hát,
lúc lại than thân già nua; xấu , (Hồi xưa khi hát thì gõ nhịp bằng cái phẫu).
Giảng: Hào 3 này ở trên cùng nội quái ly, như mặt trời sắp
lặn mà chưa lên ngoại quái Ly, chưa tới lúc mặt trời mọc (sáng hôm sau).
Câu: “bất cổ phẫu nhi ca, tắc dại diệt chi ta”, Chu Hi hiểu
là “chẳng yên phận mà vui vẻ, mà lại than thở vì già nua, thế là không biết tự
xử.”
4.
九四: 突如, 其來如, 焚如, 死如, 棄如.
Cửu tứ: Đột như, kì lai như, phần như, tử như, khí như.
Dịch: Hào 4, dương: thình lình chạy tới, như muốn đốt người
ta vậy, thì sẽ chết, bị mọi người bỏ.
Giảng: Hão này dương cương, nóng nảy, bất chính, bất trung,
mới ở nội quái lên, gặp hào 5 âm nhu, muốn lấn át 5, như một người ở đâu thình
lình tới, lồn lộn lên muốn đốt người ta (hào 5) , táo bạo, vụng về như vậy làm
sao khỏi chết, có ai dung được nó đâu.
5.
六五: 出涕沱若, 戚嗟若, 吉.
Lục ngũ: xuất thế đà nhược, thích ta nhược, cát.
Dịch: Hào 5, âm: Nước mắt ròng ròng, nhưng biết buồn lo than
thở, nên tốt.
Giảng: Hào này âm nhu, ở ngôi tôn, trung những không chính,
bị ép giữa hào hào dương, mắc vào hoàn cảnh khó khăn, cho nên bảo là “nước mắt
ròng ròng”; nhưng nhờ đức văn minh của quẻ Ly, nên là người biết lo tính, than
thở, tìm cách đối pó với hoàn cảnh được, cho nên rồi sẽ tốt.
6.
上九: 王用出征, 有嘉; 折首, 獲匪其醜, 无咎.
Thượng cửu: Vương dụng xuất chinh,
Hữu gia; chiết thủ, hoạch phỉ kì xú, vô cữu.
Dịch: Hào trên cùng, dương: vua dùng (người có tài, tức hào
này) để ra quân chinh phạt, có công tốt đẹp, giết đầu đảng mà bắt sống kẻ xấu
đi thì thôi, như vậy thì không có lỗi.
Giảng: Hào này dương cương lại ở trên cùng quẻ Ly, thế là
vừa cương quyết vừa sáng suốt đến cực điểm, vua dùng tài ấy để trừ kẻ gian tà
thì thành công lớn.
Nhưng vì cương quá thì dễ hóa tàn bạo, nên Hào từ khuyên dẹp
loạn thì chỉ nên giết những kẻ đầu sỏ, còn những kẻ đi theo thì bắt sống thôi.
Như vậy sẽ không có lỗi.
- Nguyễn Hiến Lê -
Hỏa Lôi Phệ Hạp
21. QUẺ HỎA LÔI PHỆ HẠP
Trên là ly (lửa), dưới là Chấn (sấm)
Tự quái truyện giảng: tình, lý có chỗ khả quan rồi sau mới
hợp nhau được; nhưng muốn cho hợp nhau thì trước hết phải trừ sự ngăn cách đã,
cho nên sau quẻ Quan, tới quẻ Phệ hạp. Phệ là cắn, là trừ (sự ngăn cách), hạp
là hợp.
* Thoán từ
噬嗑: 亨, 利用獄.
Phệ hạp: Hanh, lợi dụng ngục.
Dịch: Căn để hợp lại, như vậy là hanh thông; dùng vào việc
hình ngục thì có lợi .
Giảng: Quẻ Phệ hạp này nói về việc hình ngục.
Hào sơ và hào trên cùng là hai vạch liền, tượng như hàm trên
và hàm dưới; ở giữa có ba vạch đứt, là miệng há ra; xen vào một vạch liền như
một cái quẻ cản ngang miệng, làm gián cách hai hàm răng; Phải cắn gãy, trừ nó
đi rồi hai hàm mới hợp với nhau được.
Trong xã hội, kẻ gián cách đó là bọn gian tà, sàm nịnh bưng
bít kẻ trên người dưới mà trên không thông tới dưới, dưới không đạt tới trên.
Cho nên phải dùng hình ngục để trừ chúng.
Hình ngục muốn có kết quả thì phải vừa uy, vừa sáng usốt.
Nội quái Chấn là uy; ngoại quái Ly là sáng suốt.
Lại xét riêng hào 5, hào làm chủ trong quẻ; nó ở ngôi cao,
âm nhu mà đắc trung, là có ý khuyên dùng hình ngục tuy phải uy, phải cương,
nhưng vẫn nên có một chút nhu, hiếu sinh; nếu chỉ cương thôi thì hóa ra tàn
khốc, hiếu sát mất.
Đó là đại ý Thoán truyện. Đại tượng truyện bảo tiên vương
theo ý nghĩa quẻ Phệ hạp này mà làm sáng tỏ sự trừng phạt và răn bảo bằng pháp
luật. (Tiên vương dĩ minh phạt, sắc pháp: 先王以明罰, 敕法 cũng
có người hiểu là sắp đặt pháp luật hoặc ban bố pháp luật)
* Hào từ
1.
初九: 屨校滅趾, 无咎.
Sơ cửu: Lí giảo diệt chỉ, vô cữu.
Dịch: Hào 1, dương : ví như chân đạp vào cái cùm mà đứt ngón
chân cái, không có lỗi lớn.
Giảng: Trong quẻ này hào 1 và hào trên cùng là người không
có chức vị, bị chịu hình; còn 4 hào kia là người có chức vị áp dụng hình pháp.
Hào 1 ở dưới cùng là hạng dân thường, mới làm bậy mà bị tội
nhẹ (cùm chân, chặt ngón chân cái) th́ sẽ sợ phép nước mà sau không làm điều ác
nữa, cho nên không có lỗi lớn.
2.
六二: 噬膚, 滅鼻, 无咎.
Lục nhị: Phệ phu, diệt tị, vô cữu.
Dịch: Hào 2, âm: Cắn miếng thịt mềm, sứt cái mũi, không có
lỗi.
Giảng: hào này cũng như ba hào sau, dùng chữ phệ (cắn) để
trỏ người dùng hình pháp.
Hào 2 âm nhu đắc trung, chính lại được hào 5 ứng, tức là
người được vua ủy cho quyền hình pháp, vì vậy dễ thu phục được kẻ có tội, công
việc dễ như cắn miếng thịt mềm. Nhưng vì hào 2 cưỡi lên hào 1 dương cương, tức
như gặp kẻ ương ngạnh, nên phải cưỡi lên hào 1 dương cương, tức như gặp kẻ ương
ngạnh, nên phải quá tay một chút, kẻ bị tội chịu hình phạt khá đau, như bị cắn vào
mũi, đó là lỗi của hắn chứ hào 2 vẫn là trung chính, không có lỗi.
3.
六三: 噬腊肉, 遇毒, 小吝, 无咎.
Lục tam: Phệ tích nhục, ngộ độc, tiểu lận, vô cữu.
Dịch: Hào 3, âm: Cắn phải miếng thịt có xương lại ngộ độc,
đáng ân hận một chút, nhưng không có lỗi.
Giảng: Hảo 3, âm: Không trung chính, dùng hình ngục và không
được người phục, có phần bị oán nữa, như cắn phải miếng thịt có xương lại ngộ
độc; những ở vào quẻ Phệ hạp, dùng hình pháp để giữ trật tự cho xã hội, cho nên
việc làm của mình tuy đáng ân hận, mà không có lỗi lớn.
4.
九四: 噬 乾胏, 得金矢, 利艱貞, 吉.
Cửu tứ: phệ can trỉ (có người đọc là tỉ)
Đắc kim thỉ , lợi gian trinh, cát.
Dịch: Hào 4, dương : Cắn phải thứ thịt liền xương mà phơi
khô, được mũi tên đồng, chịu khó nhọc mà vững lòng giữ đường chính thì tốt.
Giảng: Hào này dương cương ở gần ngôi chí tôn (hào 5) là
người cương trực, có trách nhiệm; lại ở ngoại quái Ly, nên có tài minh đóan,
cho nên dù gặp kẻ ngoan cố cũng trị được dễ dàng, như cắn được miếng thịt liền
xương (cứng) phơi khô, mà vẫn giữ được đạo cương trực, tượng bằng mũi tên bằng
đồng.
Nhưng vì hào này cương, mà ưcơng quyết thì e gặp khó khăn,
nên Hào từ khuyên phải chịu khó nhọc, tuy cương mà vị lại nhu (hào thứ 4,
chẳn), nên lại khuyên phải vững chí. Có hai điều kiện đó thì mới tốt.
5.
六五: 噬乾肉, 得黃金, 貞厲, 无咎.
Lục ngũ: phệ can nhục, đắc hoàng kim, trinh, lệ, vô cữu.
Dịch: Hào 5, âm: Cắn miếng thịt khô, được vàng (danh dự quí
báu); phải giữ vững đạo, thường lo sợ, thì không có lỗi.
Có sách giảng về hai chữ “hoàng kim” như sau: kim là vật
quí, tượng trưng ngôi chí tôn của hào 5, hoàng là sắc của đất, của trung ương
(đen là màu của phương bắc, đỏ của phương nam, xanh của phương đông, trắng của
phương tây), tượng trưng đức trung của hào 5.
6.
上九: 何校滅耳, 凶.
Thượng cửu: Hạ giảo diệt nhĩ, hung.
Dịch: Hào trên cùng, dương : cổ tra vào gông, bị tội cắt
tai, xấu.
Giảng: Hào này lại nói về kẻ thụ hình như hào 1. Xấu hơn hào
1, vì dương cương lại ở cuối quẻ, trỏ hạng cực ác, nên bị tội nặng: đeo gông,
cắt tai.
Theo hệ từ hạ truyện, chương V thì Khổng tử bàn như sau: “.
. .không tích lũy nhiều điều ác thì không đến nỗi bị diệt thân thể (như hào
này). Kẻ tiểu nhân cho rằng (. . .) một điều ác nhỏ là vô hại, nên cứ làm; vì
vậy mà các điều ác cứ tích lũy tới lúc( . . ) tội hóa lớn mà không thể tha thứ
được”.
*
Quẻ này xét về việc hình ngục, đại ý khuyên: Người xử hình
phải sáng suốt trước hết, cương quyết mà cũng cần có đức nhu (để bớt cương đi),
có chút từ tâm, và luôn luôn phải giữ đạo chính, thận trọng (hào 5).
Hào 4 cũng tốt, vì vừa cương vừa nhu, có tài và có địa vị.
Nên răn đe dân từ khi dân mới mắc phải tội nhỏ, nếu không
dân sẽ quen làm bậy, ác cứ tích lũy mà mắc tội lớn.
- Nguyễn Hiến Lê -
Phong Địa Quan
20. QUẺ PHONG ĐỊA QUAN (QUÁN)
Trên là Tốn (gió) dưới là Khôn (đất)
Lâm là lớn, vật gì đến lúc lớn thì mới đáng biểu thị cho
người ta thấy, cho nên sau quẻ Lâm tới quẻ Quán cũng đọc là Quan. Quán là biểu
thị cho người ta thấy, Quan là xem xét
* Thoán từ:
觀: 盥而不薦, 有孚顒若.
Quán: Quán nhi bất tiến, hữu phu ngung nhược.
Dịch: Biểu thị (làm mẫu mực cho người ta thấy) cũng như
người chủ tế, lúc sắp tế, rửa tay (quán ) cho tinh khiết, bấy nhiêu cũng đủ
rồi, không cần phải bày mâm cỗ dâng lên (tiến); mình chí thành (phu) như vậy
thì người khác cũng chí thành tín ngưỡng (ngung) mình.
Giảng: Theo tượng quẻ, Tốn ở trên, Khôn ở dưới là gió thổi
trên đất, tượng trưng cho sự cổ động khắp mọi loài, hoặc xem xét (quan) khắp
mọi loài.
Lại thêm: hai hào dương ở trên, bốn hào âm ở dưới, là dương
biểu thị (quán) cho âm; âm trông (quan) vào dương mà theo.
Đó là giải nghĩa tên quẻ.
Thoán từ và Thoán truyện đưa một thí dụ cho ta dễ hiểu.
Muốn biểu thị (quán) là mẫu mực cho người khác thấy thì nên
có lòng chí thành như người chủ tế, lúc sắp tế, rửa tay cho tinh khiết, đó là
điều quan trọng nhất, còn việc dâng cỗ, thuộc về vật chất, có nhiều cũng được,
có ít cũng được, ví dụ như không có, chỉ dùng hương, hoa cũng tốt.
Hào 5 ở trong quẻ ở ngôi chí tôn, có đức dương cương, trung
chính, chính là người cho thiên hạ trông vào mà cảm hóa theo.
Người đó nên coi đạo trời lẳng lặng vậy mà bốn mùa vận hành
không sai, mà lấy lòng chí thành làm gương cho dân, dạy dân, dân sẽ không ai
không phục.
* Hào từ:
1
初六: 童觀, 小人无咎, 君子吝.
Sơ lục: Đồng quan, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.
Dịch: Hào 1, âm: Trẻ con nhìn lên (không hiểu gì), tiểu nhân
thì không đáng trách, quân tử mà như vậy thì hối tiếc.
Giảng: Tên quẻ thì đọc là Quán, người trên (hào 5) biểu thị,
làm gương cho người dưới. Nhưng xét từng hào thì đọc là quan, người dưới xem
xét tư cách, hành vi của người trên. Hào 5, dương , đắc trung làm chủ quẻ,
tượng trưng cho người trên, ông vua.
Hào nào cũng nhìn lên hào 5 cả, hào 1 ở xa quá, như con nít
tò mò mà nhìn lên, không hiểu gì cả, nhưng vì là con nít, không đáng trách;
người quân tử mà như vậy mới đáng trách.
2.
六二: 闚觀, 利女貞.
Lục nhị: Khuy quan, lợi nữ trinh.
Dịch: Hào 2, âm: Nhìn lên, chỉ thích hợp với nết trinh của
đàn bà thôi.
Giảng: Hào này âm nhu, trung chính, là người con gái có nết
trinh, ngó lên hào 5, không thấy được đạo lý của 5, con gái như vậy thì được.
Người trượng phu mà như thế thì đáng xấu hổ (khả xú dã – Tiểu tượng truyện.)
3.
六三: 觀我生, 進退.
Lục tam: Quan ngã sinh, tiến thoái.
Dịch: Hào 3, âm: Xét bản thân, hành vi của mình, xem nên
tiến lên (theo hào 4) hay nên đứng yên, đừng để phải lui xuống 2.
Giảng: Hào này bất chính (âm mà ở vị dương), lại ở trên cùng
nội quái, có thể tiến hay thoái; Hào từ khuyên đừng ngó lên hào 5, cứ tự xét
bản thân, hành vi của mình, nếu đối phó được với hoàn cảnh thì tiến lên, không
thì thôi, như vậy là chưa sai đường lối.
4.
六四: 觀國之光, 利用 賓于王.
Lục tứ: Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương.
Dịch: Hào 4, âm: Xem cái quang vinh của nước mà lợi dụng địa
vị thân cận với vua.
Giảng: Hào này âm, đắc chính, ở ngay dưới hào 5, tức là vị
thân cận với vua (quí khách của vua) được vua tín nhiệm, xem xét đức sáng của
vua (vua hiền thì nước mới vinh quang, nền vinh quang của nước tức là đức sáng
của vua), mà bắt chước, đem tài sức ra giúp đời.
5.
九五: 觀我生君子, 无咎.
Cửu ngũ: Quan ngã sinh quân tử, vô cữu.
Dịch: Hào 5, dương: Xét bản thân, hành động của ta hợp với
đạo quân tử , như vậy là không có lỗi.
Cũng có thể chấm câu như vầy: Quan ngã sinh, quân tử vô cữu;
và dịch là người quân tử ở đời này phải xem bản thân, hành động của ta (tức hào
5) mà noi theo thì không có lỗi.
Giảng: Hào 5 ngôi chí tôn, cương cường mà trung chính là bậc
quân tử làm gương cho 4 hào ở dưới, mọi người đều ngó vào.
Tiểu tượng truyện bàn rộng: “Quan ngã sinh, quan dân dã”
nghĩa là muốn xem đức của ta (của vua) thì cứ xem phong tục đạo đức của dân”,
vì vua mà hiền minh thì dân tình tốt, vua u mê thì dân tình xấu.
6.
上九: 觀其生君子, 无咎.
Thượng cửu: Quan kỳ sinh quân tử , vô cữu.
Dịch: hào trên cùng, dương: xét bản thân, hành động của hào
này hợp với đạo quân tử, như vậy là không có lỗi.
Cũng có thể chấm câu như vầy: quan kỳ sinh, quân tử vô cữu;
và dịch là : người quân tử ở đời này phải xem bản thân, hành động của nó (của
hào cuối cùng) mà noi theo thì không có lỗi.
Giảng: Hào từ: hào này y như hào từ 5, chỉ khác hào 5 dùng
chữ ngã là ta, mà hào này dùng chữ kỳ là của nó (của hào trên cùng. Là vì hào 5
là vua, nói với hào 4 là cận thần, tự xưng là ta; còn hào này là lời Chu Công nói
về hào trên cùng, cũng như đã nói về các hào 1, 2, 3, 5 ở dưới.
Hào trên cùng này cũng là dương như hào 5, cũng là quân tử ,
tuy không phải ở ngôi chí tôn, nhưng ở trên cao hơn hết, cũng làm gương cho các
hào âm trông vào. Vì nó có tư cách quân tử , nên không có lỗi.
*
Quẻ Quán này khuyên người trên nêu gương cho dưới và người
dưới noi gương người trên; nhưng trẻ con và tiểu nhân thì nhiều khi chưa biết
noi gương.
- Nguyễn Hiến Lê –
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)