Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2014
Lôi Sơn Tiểu Quá
Trạch Lôi Tùy
Địa Thiên Thái
11. QUẺ ĐỊA
THIÊN THÁI (thái 泰 tãi): (Tháng giêng).
Thời yên ổn, thuận. Nên đề phòng lúc suy.
Lí là lễ, có trật tự
trên dưới phân minh, như vậy thì yên ổn, Lí cũng có nghĩa là giẫm, là giày
(dép) đi giày thì được yên ổn; vì vậy sau quẻ Lí, tiếp tới quẻ Thái. Thái nghĩa
là yêu thích, thông thuận.
Thoán từ:
泰: 小 往 大 來, 吉 亨.
Thái: Tiểu vãng đại lai, cát, hanh.
Dịch: Thái là cái nhỏ (âm), đi,
cái lớn (dương) lại, tốt, hanh thông.
Giảng: Trong quẻ Lí, Càn
là trời, cương, Đoài là chằm, nhu; trên dưới phân minh, hợp lẽ âm dương, tốt.
Trong quẻ Thái này, Càn không nên hiểu là trời, vì
nếu hiểu như vậy thì trời ở dưới đất, không còn trên dưới phân minh nữa, xấu. Nên
hiểu Càn là khí dương, Khôn là khí âm
“khí dương ở dưới có tính cách thăng mà giao tiếp với âm, khí âm ở trên có tính
cách giao tiếp với khí dương”, hai khí giao hòa, mà mọi vật được yên ổn, thỏa
thích.
Một cách giảng nữa.
Theo Phan Bội Châu (sách đã dẫn tr 172-
173) thì:
Nguyên Thuần âm là quẻ
Khôn, là âm thịnh chi cực, cực thì phải tiêu, nhân đó một nét dương thay vào
dưới, hào 1 của Khôn thành ra quẻ Phục, Phục là một dương mới sinh.
Dương sinh đến hào thứ
hai thì thành quẻ Lâm 臨, thế là dương đã lớn thêm lần lần. Khí dương
sinh đến hào thứ 3 thì thành quẻ Thái, trên là Khôn, dưới là Càn.
Khôn là âm nhu, là tiểu
nhân; Càn là quân tử. Quẻ Thái là tượng đạo tiểu nhân dương tiêu mòn, đạo quân
tử dương lớn mạnh, hai bên ngang nhau cho nên gọi là Thái.
Thoán từ bàn thêm:
“Thái là lúc cái nhỏ đi, cái lớn trở lại (...) là trời đất giao cảm mà muôn vật
thông, trên dưới giao cảm mà chí hướng như nhau. Trong (nội quái) là dương,
ngoài (ngoại quái) là âm, trong mạnh mà ngoài thuận, trong quân tử mà ngoài
tiểu nhân, đạo quân tử thì lớn lên, mà đạo tiểu nhân thì tiêu lần.
Hào từ:
1. 初 九: 拔 茅 茹, 以 其 彙, 征 吉.
Sơ cửu: Bạt mao
nhự, dĩ kì vị, chinh cát.
Dịch: Hào 1, dương : Nhổ rể cỏ mao mà được cả đám, tiến lên
thì tốt.
Giảng: Hào nay là người có tài, còn ở vị thấp, nhưng cặp với hào
hai trên, như có nhóm đồng chí dắt díu nhau tiến lên, để gánh việc thiên hạ,
cho nên việc làm dễ có kết quả như nhổ rể có mao, nhổ một cọng mà được cả đám.
2.九 二: 包 荒, 用 馮 河, 不 遐 遺,
Cửu nhị: Bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di,
朋 亡, 得 尚 于 中 行.
bằng vong, đắc thượng vu
trung hành.
Dịch: Bao dung sự hoang phế (những tệ hại cũ), dùng cách
cương quyết mạo hiểm như lội qua sông, không bỏ sót những việc (hoặc người ) ở
xa, không nghĩ đến bè đảng, mà phải hợp với đạo trung.
Giảng: Hào dương, đắc trung, đồng chí đã đông (hào 1 và 3) lại ứng
hợp với hào 5 âm, cũng đắc trung, tức với vị nguyên thủ tin cậy, nghe theo
mình, vậy là có tài lớn mà hoàn cảnh rất thuận lợi; nhưng cần có những đức này
nữa:
- Có độ lượng, bao dung
một số tệ hại cũ còn lại, đừng mong trừ tiệt ngay trong buổi đầu.
- Có đức cương quyết
mạo hiểm như người có gan lội qua sông, như Luận
hgữ nói: bạo hổ bằng hà.
- Tính trước những việc
xa xôi sẽ xảy tới (có người hiểu là đừng bỏ sót những người ở xa).
- Đừng có tinh thần
đảng phái mà có hại cho đại nghĩa.
- Cần nhất là giữ đạo
trung của hào 2, việc gì cũng vừa phải thôi, chẳng hạn bao dung quá hay mạo
hiểm quá đều là hại cả.
3. 九 三: 无 平 不 陂, 无 往 不 復,
Cửu tam:
Vô bình bất
bi, vô vãng bất phục,
艱 貞 无 咎, 勿 恤, 其 孚, 于 食 有 福.
gian trinh vô
cữu, vật tuất,
kì phu, vu thực
hữu phúc.
Dịch: Hào 3, dương: Không có cái gì bằng mãi mà không
nghiêng, đi mãi mà không trở lại, trong cảnh gian nan mà giữ được chính đáng
thì không lỗi. Đừng lo phiền, cứ tin ở điều chính thì được hưởng phúc.
4. 六 四: 翩 翩, 不 富, 以 其 鄰, 不 戒 以 孚.
Lục
tứ: Phiên phiên, bất phú,
dĩ kì lân, bất giới
dĩ
phu.
Dịch: Hào 4, âm: Dập dìu (hoặc hớn hở) với nhau, không giàu
mà thành một xóm, chẳng ước hẹn mà cũng tin nhau.
Giảng: Đây đã qua nửa quẻ Thái, dương suy, bày âm (ba hào âm) tức
bọn tiểu nhân kết hợp với nhau, tuy chúng không “giàu”, không có tài đức (âm có
nghĩa là hư, trái với thực – dương – cho nên bảo là không giàu) nhưng cũng
thành một xóm đông, đồng tâm với nhau chẳng ước hẹn mà cùng tin nhau, vì cùng
sẵn lòng gian tà cả.
5. 六 五: 帝 乙 歸 妹, 以 祉, 元 吉.
Lục ngũ:
Đế Ất quy
muội, dĩ chỉ,
nguyên cát.
Dịch: Như vua đế Ất (đời Thương) cho em gái về nhà chồng, có
phúc, rất tốt.
Giảng: Hào âm này đắc trung, tuy ở địa vị chí tôn mà khiêm nhu, lại
ứng hợp với hào 2, dương ở dưới; như em gái vua Đế Ất, chịu làm vợ một người
hiền trong giới bình dân, sẽ được hưởng phúc.
6. 上 六: 城 復 于 隍, 勿 用 師,
Thượng lục: Thành phục
vu hoàng, vật dụng
sư,
自 邑 告 命, 貞 吝.
tự ấp cáo mệnh, trinh lận.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Thành đổ sụp xuống, lại chỉ là đống
đất. Đừng dùng quân nữa, bất quá mệnh lệnh chỉ ban ra được trong ấp mình thôi.
Dù hành động của mình chính đáng nhưng vẫn thất bại mà xấu hổ.
Giảng: Đây tới lúc cuối cùng của thời Thái, sắp bĩ rồi, như cái
thành sụp xuống. Vì là hào âm lại ở địa âm, đừng tranh giành (dùng quân) nữa, không
cứu vãn được đâu, có ban lệnh cũng chỉ một ấp mình nghe thôi.
Hai chữ “trinh lận”, R. Wilhem giảng là: dù có
kiên nhẫn (chống đỡ) cũng thất bại mà xấu hổ. Chúng tôi nghĩ hào cuối này âm
nhu thái quá, không có chí kiên nhẫn được, nên dịch theo Chu Hi.
*
Dưới đây chúng tôi chép
thêm lời bàn của Phan Bội Châu (Phan Bội
Châu - Tập 9 - Chu Dịch tr. 184) “Chúng ta đọc Dịch từ lúc có Càn, Khôn, trải qua trung gian, nào Truân mà kinh luân; nào Mông mà giáo dục; nào Nhu mà sinh tụ; nào Tụng, nào Sư mà sắp đặt
việc hình, việc binh; nào Súc, nào Lí mà chỉnh đốn việc kinh tế, việc lễ
chế; hao tổn biết bao tâm huyết, chứa trữ biết bao nhiêu thì giờ. Kể về phần Khảm (hiểm) trải qua đến 6 lần:
1. - Truân, Khảm thượng 2. - Mông,
Khảm hạ
3. - Nhu, Khảm thượng 4. - Tụng, Khảm hạ.
5. - Sư, Khảm hạ 6. - Tỉ, Khảm thượng.
Thoát khỏi 6 lần nguy
hiểm rồi. Vậy sau, trong có chốn nuôi, trữ là Tiểu Súc, ngoài có chốn bằng tạ (nhờ cậy, ỷ vào) là Lí. Bây giờ mới làm nên Thái.
Thái vừa đến cuối cùng,
tức khắc ra Bĩ (coi quẻ sau). Ghê gớm
thật! Làm nên tốn vô số công phu, mà làm hư chỉ trong chốc lát, vun đắp biết
bao nền tảng, mà đánh đổ chỉ trong nháy mắt.
Không chắc đó đã là
thâm ý của người sắp đặt các quẻ, nhưng việc đời quả có như vậy: Kiến thiết
lâu, suy rất chóng.
Thiên Trạch Lý
10. QUẺ
THIÊN TRẠCH LÝ (lí 履 lủ): Cách ở đời từ trẻ tới già: Giữ đạo trung chính,
khiêm tốn.
; trên là
Đầu quẻ
Tiểu Súc đã nói súc còn có nghĩa là chứa, nhóm (như súc tích)
Tự quái truyện dùng nghĩa đó mà giảng: khi đã nhóm họp
nhau thì phải có trật tự, có trên có dưới, không thể hỗn tạp được, nghĩa là
phải có lễ. Sống trong xã hội phải theo lễ, dẫm lên cái lễ, không chệch ra
ngoài (chúng ta thường nói dẫm lên dấu chân của một người để diễn cái ý theo
đúng đường lối người ấy); mà dẫm lên, chữ Hán gọi là lí, do đó sau quẻ Tiểu súc, tới quẻ Lí. Cách giải thích đó có phần
nào gượng ép.
Thoán từ:
履 虎 尾 , 不 咥 人 亨.
Lí hổ vĩ, bất điệt nhân,
hanh.
Dịch: Dẫm lên đuôi cọp mà cọp
không cắn, hanh thông.
Giảng: Trên là dương cương, là Càn, là trời: dưới là âm nhu, là
Đoài, là chằm, vậy là trên dưới phân minh lại hợp lẽ âm dương tức là lễ, là lý.
Có tính âm nhu, vui vẻ đi theo sau dương cương thì dù người đi trước mình dữ
như cọp, cũng tỏ ra hiền từ với mình, cho nên bảo rằng dẫm lên đuôi cọp mà cọp
không cắn. Ba chữ “lí hổ vĩ” chính nghĩa là dẫm lên đuôi cọp, chỉ nên hiểu là
đi theo sau cọp, lấy sự nhu thuận, vui vẻ mà ứng phó với sự cương cường.
Thoán truyện bàn thêm: Hào 5 quẻ này là dương mà
trung, chính, xứng với ngôi chí tôn, chẳng có tệ bệnh gì cả mà lại được quang
minh.
Đại tượng truyện: bảo trên dưới phân minh (có tài đức ở
trên, kém tài đức ở dưới) như vậy lòng dân mới không hoang mang (định dân chí)
không có sự tranh giành.
Hào từ:
1. 初 九: 素 履, 往, 无 咎.
Sơ cửu: Tố lí, vãng, vô cữu.
Dịch: Hào 1, dương: Giữ bản chất trong
trắng mà ra với đời thì không có lỗi.
Giảng: Hào 1 này như người mới ra đời, còn giữ được bản chất
trong trắng (ý nghĩa của chữ tố) chưa nhiễm thói đời, vì là hào dương, quân tử,
có chí nguyện, cứ giữ chí nguyện mình thì không có lỗi.
2. 九 二: 履 道 坦 坦, 幽 人 貞 吉.
Cửu nhị:
Lí đạo thản thản, u nhân
trinh cát.
Dịch: Hào 2, dương: Như đi trên đường
bằng phẳng, cứ một mình giữ vững đường chính thì tốt.
Giảng: Hào dương này đắc trung, vẫn là hiền nhân, quân tử, bình
thản giữ đạo trung không để cho lòng rối loạn thì tốt.
Tuy có
hào 5 ở trên ứng với, nhưng 5 cũng là dương, không hợp, (phải một dương một âm
mới tìm nhau, hợp nhau, viện nhau) cho nên bảo hào này là cô độc.
Chúng ta
để ý: quẻ Càn, hào 2 và hào 5 cũng đều là dương cả, mà Hào từ bảo 2 và 5 nên
tìm nhau mà làm việc; còn quẻ Lí này thì không, như vậy là phải tùy theo
ý nghĩa của quẻ (tùy thời) mà giảng.
3. 六 三: 眇, 能 視; 跛, 能 履.
Lục tam:
Miễu, năng thị;
bả, năng lí.
履 虎 尾, 咥 人, 凶.武 人 為 于 大 君.
Lí hổ
vĩ,
điệt nhân, hung.
Võ nhân vi vu
đại quân.
Dịch: Hào 3, âm: Chột (mà tự phụ là)
thấy tỏ, thọt (mà tự phụ là) đi nhanh, như vậy thì nguy như dẫm lên đuôi cọp mà
bị nó cắn. Đó là kẻ vũ phu mà đòi làm việc của một ông vua lớn.
Giảng: Hào này âm nhu mà ở ngôi dương cương, bất chính, bất trung,
trên dưới đều là hào dương cả, không lượng tài mình kém (âm) mà đua đòi theo
các hào dương, không khác người thọt tự khoe là đi nhanh; đó là hạng võ phu mà
đòi làm một ông vua lớn, sẽ gặp họa, như dẫm lên đuôi cọp, bị cọp cắn.
4. 九 四: 履 虎 尾, 愬 愬, 終 吉.
Cửu tứ: Lí hổ vĩ, sách sách (hoặc sóc sóc) chung cát.
Dịch: Hào 4, dương: Dẫm lên đuôi cọp,
nhưng biết sợ hãi, nên quẻ sẽ tốt.
Giảng: Hào này, dương mà ở vị âm, cũng bất trung, bất chính như
hào 3, cũng ở sau một hào dương cương, cũng như dẫm lên đuôi cọp, nhưng hào 3
hung, hào 4 cát, chỉ do lẽ: 3 bản chất nhu, tài kém, u mê mà ở vị dương, chí
hăng; còn 4 bản chất cương, có tài, sáng suốt mà ở vị âm, biết sợ hãi, thận
trọng.
5. 九 五: 夬 履, 貞 厲.
Cửu ngũ: Quyết lí, trinh lệ.
Dịch: Hào 5, dương: Quyết tâm hành động
quá thì tuy chính đáng cũng có thể nguy.
Giảng: Hào 5 đắc chính, đắc trung, rất tốt, nhưng ở địa vị chí tôn trong quẻ
Lí (nói về cách ở đời) thì e có lòng cương quyết quá mà tự thị, ỷ thế, mà hóa
nguy.
6. 上 九: 視 履, 考 祥, 其 旋, 元 吉.
Thượng
cửu: Thị lí,
khảo tường, kì toàn, nguyên cát.
Dịch: Hào trên cùng, dương, xem cách ăn
ở trong đời người, cho nên Hào từ diễn ý nghĩa của toàn quẻ chứ không diễn ý
nghĩa của riêng hào cuối. Cũng là một lệ ngoại như hào cuối cùng quẻ Tiểu súc.
Quẻ này
tên là Lí có nghĩa là lễ, là dẫm lên, nhưng cả 6 hào đều nói về cách ăn ở trong
suốt đời người: mới ra đời thì phải giữ tính chất phác trong trắng, rồi sau giữ
vững đường chính (hào 2); biết sức mình, đừng tự phụ (hào 3) để tránh nguy,
biết thận trọng, sợ hãi thì tốt (hào 4), và ở địa vị cao nhất, đừng ỷ thế mà
cương quyết quá (hào 5), cách ăn ở được như vậy cho tới cuối đời thì tốt không
gì bằng.
Chúng ta
để ý: Quẻ này cũng chỉ có một hào âm mà không có nghĩa thống lĩnh quần dương
như quẻ tiểu súc. Như vậy là biến dịch.