11. QUẺ ĐỊA
THIÊN THÁI (thái 泰 tãi): (Tháng giêng).
Thời yên ổn, thuận. Nên đề phòng lúc suy.
Lí là lễ, có trật tự
trên dưới phân minh, như vậy thì yên ổn, Lí cũng có nghĩa là giẫm, là giày
(dép) đi giày thì được yên ổn; vì vậy sau quẻ Lí, tiếp tới quẻ Thái. Thái nghĩa
là yêu thích, thông thuận.
Thoán từ:
泰: 小 往 大 來, 吉 亨.
Thái: Tiểu vãng đại lai, cát, hanh.
Dịch: Thái là cái nhỏ (âm), đi,
cái lớn (dương) lại, tốt, hanh thông.
Giảng: Trong quẻ Lí, Càn
là trời, cương, Đoài là chằm, nhu; trên dưới phân minh, hợp lẽ âm dương, tốt.
Trong quẻ Thái này, Càn không nên hiểu là trời, vì
nếu hiểu như vậy thì trời ở dưới đất, không còn trên dưới phân minh nữa, xấu. Nên
hiểu Càn là khí dương, Khôn là khí âm
“khí dương ở dưới có tính cách thăng mà giao tiếp với âm, khí âm ở trên có tính
cách giao tiếp với khí dương”, hai khí giao hòa, mà mọi vật được yên ổn, thỏa
thích.
Một cách giảng nữa.
Theo Phan Bội Châu (sách đã dẫn tr 172-
173) thì:
Nguyên Thuần âm là quẻ
Khôn, là âm thịnh chi cực, cực thì phải tiêu, nhân đó một nét dương thay vào
dưới, hào 1 của Khôn thành ra quẻ Phục, Phục là một dương mới sinh.
Dương sinh đến hào thứ
hai thì thành quẻ Lâm 臨, thế là dương đã lớn thêm lần lần. Khí dương
sinh đến hào thứ 3 thì thành quẻ Thái, trên là Khôn, dưới là Càn.
Khôn là âm nhu, là tiểu
nhân; Càn là quân tử. Quẻ Thái là tượng đạo tiểu nhân dương tiêu mòn, đạo quân
tử dương lớn mạnh, hai bên ngang nhau cho nên gọi là Thái.
Thoán từ bàn thêm:
“Thái là lúc cái nhỏ đi, cái lớn trở lại (...) là trời đất giao cảm mà muôn vật
thông, trên dưới giao cảm mà chí hướng như nhau. Trong (nội quái) là dương,
ngoài (ngoại quái) là âm, trong mạnh mà ngoài thuận, trong quân tử mà ngoài
tiểu nhân, đạo quân tử thì lớn lên, mà đạo tiểu nhân thì tiêu lần.
Hào từ:
1. 初 九: 拔 茅 茹, 以 其 彙, 征 吉.
Sơ cửu: Bạt mao
nhự, dĩ kì vị, chinh cát.
Dịch: Hào 1, dương : Nhổ rể cỏ mao mà được cả đám, tiến lên
thì tốt.
Giảng: Hào nay là người có tài, còn ở vị thấp, nhưng cặp với hào
hai trên, như có nhóm đồng chí dắt díu nhau tiến lên, để gánh việc thiên hạ,
cho nên việc làm dễ có kết quả như nhổ rể có mao, nhổ một cọng mà được cả đám.
2.九 二: 包 荒, 用 馮 河, 不 遐 遺,
Cửu nhị: Bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di,
朋 亡, 得 尚 于 中 行.
bằng vong, đắc thượng vu
trung hành.
Dịch: Bao dung sự hoang phế (những tệ hại cũ), dùng cách
cương quyết mạo hiểm như lội qua sông, không bỏ sót những việc (hoặc người ) ở
xa, không nghĩ đến bè đảng, mà phải hợp với đạo trung.
Giảng: Hào dương, đắc trung, đồng chí đã đông (hào 1 và 3) lại ứng
hợp với hào 5 âm, cũng đắc trung, tức với vị nguyên thủ tin cậy, nghe theo
mình, vậy là có tài lớn mà hoàn cảnh rất thuận lợi; nhưng cần có những đức này
nữa:
- Có độ lượng, bao dung
một số tệ hại cũ còn lại, đừng mong trừ tiệt ngay trong buổi đầu.
- Có đức cương quyết
mạo hiểm như người có gan lội qua sông, như Luận
hgữ nói: bạo hổ bằng hà.
- Tính trước những việc
xa xôi sẽ xảy tới (có người hiểu là đừng bỏ sót những người ở xa).
- Đừng có tinh thần
đảng phái mà có hại cho đại nghĩa.
- Cần nhất là giữ đạo
trung của hào 2, việc gì cũng vừa phải thôi, chẳng hạn bao dung quá hay mạo
hiểm quá đều là hại cả.
3. 九 三: 无 平 不 陂, 无 往 不 復,
Cửu tam:
Vô bình bất
bi, vô vãng bất phục,
艱 貞 无 咎, 勿 恤, 其 孚, 于 食 有 福.
gian trinh vô
cữu, vật tuất,
kì phu, vu thực
hữu phúc.
Dịch: Hào 3, dương: Không có cái gì bằng mãi mà không
nghiêng, đi mãi mà không trở lại, trong cảnh gian nan mà giữ được chính đáng
thì không lỗi. Đừng lo phiền, cứ tin ở điều chính thì được hưởng phúc.
4. 六 四: 翩 翩, 不 富, 以 其 鄰, 不 戒 以 孚.
Lục
tứ: Phiên phiên, bất phú,
dĩ kì lân, bất giới
dĩ
phu.
Dịch: Hào 4, âm: Dập dìu (hoặc hớn hở) với nhau, không giàu
mà thành một xóm, chẳng ước hẹn mà cũng tin nhau.
Giảng: Đây đã qua nửa quẻ Thái, dương suy, bày âm (ba hào âm) tức
bọn tiểu nhân kết hợp với nhau, tuy chúng không “giàu”, không có tài đức (âm có
nghĩa là hư, trái với thực – dương – cho nên bảo là không giàu) nhưng cũng
thành một xóm đông, đồng tâm với nhau chẳng ước hẹn mà cùng tin nhau, vì cùng
sẵn lòng gian tà cả.
5. 六 五: 帝 乙 歸 妹, 以 祉, 元 吉.
Lục ngũ:
Đế Ất quy
muội, dĩ chỉ,
nguyên cát.
Dịch: Như vua đế Ất (đời Thương) cho em gái về nhà chồng, có
phúc, rất tốt.
Giảng: Hào âm này đắc trung, tuy ở địa vị chí tôn mà khiêm nhu, lại
ứng hợp với hào 2, dương ở dưới; như em gái vua Đế Ất, chịu làm vợ một người
hiền trong giới bình dân, sẽ được hưởng phúc.
6. 上 六: 城 復 于 隍, 勿 用 師,
Thượng lục: Thành phục
vu hoàng, vật dụng
sư,
自 邑 告 命, 貞 吝.
tự ấp cáo mệnh, trinh lận.
Dịch: Hào trên cùng, âm: Thành đổ sụp xuống, lại chỉ là đống
đất. Đừng dùng quân nữa, bất quá mệnh lệnh chỉ ban ra được trong ấp mình thôi.
Dù hành động của mình chính đáng nhưng vẫn thất bại mà xấu hổ.
Giảng: Đây tới lúc cuối cùng của thời Thái, sắp bĩ rồi, như cái
thành sụp xuống. Vì là hào âm lại ở địa âm, đừng tranh giành (dùng quân) nữa, không
cứu vãn được đâu, có ban lệnh cũng chỉ một ấp mình nghe thôi.
Hai chữ “trinh lận”, R. Wilhem giảng là: dù có
kiên nhẫn (chống đỡ) cũng thất bại mà xấu hổ. Chúng tôi nghĩ hào cuối này âm
nhu thái quá, không có chí kiên nhẫn được, nên dịch theo Chu Hi.
*
Dưới đây chúng tôi chép
thêm lời bàn của Phan Bội Châu (Phan Bội
Châu - Tập 9 - Chu Dịch tr. 184) “Chúng ta đọc Dịch từ lúc có Càn, Khôn, trải qua trung gian, nào Truân mà kinh luân; nào Mông mà giáo dục; nào Nhu mà sinh tụ; nào Tụng, nào Sư mà sắp đặt
việc hình, việc binh; nào Súc, nào Lí mà chỉnh đốn việc kinh tế, việc lễ
chế; hao tổn biết bao tâm huyết, chứa trữ biết bao nhiêu thì giờ. Kể về phần Khảm (hiểm) trải qua đến 6 lần:
1. - Truân, Khảm thượng 2. - Mông,
Khảm hạ
3. - Nhu, Khảm thượng 4. - Tụng, Khảm hạ.
5. - Sư, Khảm hạ 6. - Tỉ, Khảm thượng.
Thoát khỏi 6 lần nguy
hiểm rồi. Vậy sau, trong có chốn nuôi, trữ là Tiểu Súc, ngoài có chốn bằng tạ (nhờ cậy, ỷ vào) là Lí. Bây giờ mới làm nên Thái.
Thái vừa đến cuối cùng,
tức khắc ra Bĩ (coi quẻ sau). Ghê gớm
thật! Làm nên tốn vô số công phu, mà làm hư chỉ trong chốc lát, vun đắp biết
bao nền tảng, mà đánh đổ chỉ trong nháy mắt.
Không chắc đó đã là
thâm ý của người sắp đặt các quẻ, nhưng việc đời quả có như vậy: Kiến thiết
lâu, suy rất chóng.